
Chương 1: CÁC VUA VÀ CÁC NHÀ TIÊN TRI


Ngài (I Các vua 3). Đức Chúa Trời cảm động sâu sắc vì lời cầu nguyện của người và trả lời bằng cách ban cho người sự khôn ngoan, giàu có và danh vọng không ai có thể so sánh được.
đồng dân sự. Ông cũng là người có lòng tin cậy và vâng lời Đức Giêhôva. Có thể nói không có vị vua nào, trước hay sau Êxêchia đã gần gũi với Chúa như ông. Do đó, ông là một gương
tốt cho chúng ta, nhưng đồng thời ông cũng là một sự cảnh báo.
Khi Êxêchia lâm bệnh, qua tiên tri Êsai Chúa truyền cho ông cần phải sắp xếp mọi công việc vì ông sắp chết (20:1-11). Êxêchia quay mặt vào vách, khóc lóc, và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời thương xót ông.
Rồi chúng ta đọc được sứ điệp tốt đẹp của Đức Giêhôva gởi cho Êxêchia qua Êsai: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi và đã thấy nước mắt ngươi” (20:5). Đức Chúa Trời nhìn thấy nước mắt. Tôi nghĩ điều nầy rất có ý nghĩa. Và Đức Giêhôva đã cho Êxêchia sống thêm mười lăm năm nữa. Đây là điều chúng ta cần học hỏi . Ông vẫn kêu cầu Chúa, mặc dầu được tiên tri Êsai, người nói thay cho Đức Giêhôva cho biết rằng ông sắp chết.
Âm, họ thấy rằng nó quá đơn giản đếân nỗi không thể tin được, nhưng Phúc Âm chỉ đơn giản thế thôi, đơn giản như việc tắm trong sông Giôđanh bảy lần, không cần phải có những phẩm chất thông thái đặc biệt mới có thể nhận được. Êlisê để lại cho chúng ta một bài học trong việc ông không đáp ứng những điều Naaman trông đợi, cho dù điều đó rất có lợi cho ông. Đây là những ứng dụng căn bản trong câu chuyện về Naaman, người phung và tiên tri Êlisê.

rất to lớn của Đavít cho sự thờ phượng của cả nước. Trong I Sử ký 15 và 23 có những đoạn văn hay, kể lại việc Đavít đã thành lập những đoàn đồng ca và các nhạc sĩ như thế nào. Người đã có một dàn nhạc lớn và một đoàn đồng ca người Lêvi gồm bốn ngàn người. Sự đóng góp của Đavít trong các buổi thờ phượng được nhấn mạnh trong Sử ký, mặc dù nó đã bị bỏ sót trong các sách Samuên, vì Đức Chúa Trời đang phán bảo với chúng ta, theo cái nhìn của Ngài thì điều gì mới là có ý nghĩa trong sự thờ phượng.
Cũng trong Sử ký, chúng ta biết lý do tại sao Đavít không được phép xây nhà cho Đức Chúa Trời, vì người từng là một chiến binh và làm đổ huyết quá nhiều (I Sử ký 22:8-9). Chính sách Sử ký cũng giải thích tại sao vị vua tốt như Giôsaphát lại liên minh với một vua gian ác họ có chung những người cháu vì con của họ đã cưới nhau (II Sử ký 18:1).
Lời Cầu Nguyện Cho Sự Phục Hưng.

Exơra, Nêhêmi, và Êxơtê ghi lại giai đoạn lịch sử khi thời kỳ nô lệ đã kết thúc, mà trong đó các tiên tri hậu nô lệ đã viết, đã rao giảng, đã sống và đã chết.
• Chủ đề chính đều hướng về cùng một sự kiện trong lịch sử Hêbơrơ: Sự trở về từ cảnh nô lệ tại Babylôn. Chủ đề chính của hai sách đều đề cập đến công việc của Đức Chúa Trời khi cả hai ông còn sống: Tái xây dựng đền thờ Giêrusalem.
• Cả hai sách đều nhấn mạnh đến đường lối và nguyên tắc cần được tuân thủ khi con người dự phần vào công việc của Đức Chúa Trời.
• Hai sách đều cho chúng ta những mô hình quan trọng trong việc lãnh đạo. Mặc dù có sự khác nhau trong cách lãnh đạo và ân tứ lãnh đạo, cả hai ông đều là những lãnh tụ vĩ đại.Exơra vừa là thầy tế lễ vừa là văn sĩ, giảng dạy lời của Đức Chúa Trời. Công việc của Exơra chủ yếu là công tác mục vụ. Nêhêmi, một tín hữu, là một người xây dựng có đầu óc thực tiễn và thực tế.
• Cả hai người đều được xức dầu để đem đến sự phục hưng, rõ ràng đó là công việc của Đức Chúa Trời.
• Hai sách đều có những nét đại cương: Các chương đầu của mỗi sách nêu rõ việc phải làm, và khi được làm xong, dân sự lại lìa bỏ Đức Giêhôva. Exơra 9 và Nêhêmi 9 cũng cho thấy cách ăn ở của dân sự khiến cả hai lãnh tụ đau buồn. Nỗi lòng nầy được bày tỏ qua những lời cầu nguyện xưng tội, buồn rầu và ăn năn.
• Cả hai sách đều đề cập đến việc các vua ngoại bang cấp giấy phép, cho ta thấy Đức Chúa Trời tể trị và trợ giúp để công việc được hoàn thành qua dân sự của Ngài.
• Cả hai sách nầy đều kết thúc bằng một giọng điệu lạc quan đầy khích lệ về mặt thuộc linh.Những Bài Học Đặc Sắc Từ Exơra.
Khi nghiên cứu sách Exơra, tôi muốn chú trọng vào con người. Exơra nên được đặt ngang hàng với các vĩ nhân như Môise, Samuên và Đavít. Chức vụ của ông đem lại sự phục hưng quan trọng trong Lời của Đức Chúa Trời.
Ngài.

Công việc của Đức Chúa Trời phải được thực hiện bởi dân sự của Ngài. Những kẻ vô tín không có phần trong đó. Theo tôi, một trong những nhược điểm của Hội thánh ngày nay là Hội thánh bị pha trộn giữa tín đồ và những người chỉ mang danh là tín đồ. Nhiều Hội thánh thường chọn những người lãnh đạo các ban ngành qua địa vị, uy tín, tiền bạc, và danh tiếng của họ – cho dù họ có là tín đồ thật hay không. Công việc Chúa phải được thực hiện bởi dân sự của Chúa, chứ không phải bởi bất cứ người nào muốn thành một phần tử trong số họ, dầu người đó có thể đang thành công trong lãnh vực kinh doanh hay được chấp nhận về mặt xã hội. Thử tưởng tượng có một đối tượng cần quen biết nhiều người để thuận lợi hơn trong nghề của mình (ví dụ như một nha sĩ không tin Chúa nhưng cần quen biết nhiều gia đình đông con).
Song vị vua kế tiếp, Đariút, đã tìm tòi trong biên niên sử, phát hiện vua Siru đã từng ra chiếu chỉ cho phép và cung cấp vật liệu để xây dựng lại đền thờ. Ông đã viết:“Khá để cho quan cai của người Giuđa và những người trưởng lão của chúng xây cất lại đền thờ của Đức Chúa Trời tại nơi cũ nó. Nầy ta ra lệnh, truyền các ngươi phải làm gì đối với các trưởng lão dân Giuđa, đặng giúp việc cất lại ngôi đền của Đức Chúa Trời: Hãy lấy thuế khóa thâu của bên kia sông, vội cấp phát các tiền chi phí cho những người đó, để công việc chẳng bị dứt chừng” (6:7-8).Đức Chúa Trờiõ san bằng sự chống đối. Ý muốn và công việc của Ngài đã được thực hiện.
Nguyên tắc thứ tám: Khi Đức Chúa Trời làm việc qua dân sự Ngài, dân ngoại có thể sẽ được cứu khi họ nhận biết Đức Chúa Trời đang hành động. Khi dân chúng thấy Chúa làm việc qua chúng ta, và nhận biết chúng ta chỉ là những ống dẫn bằng đất, không thể hoàn tất công việc nầy theo sức riêng mình, thì họ bắt đầu ý thức rằng đó là việc làm của Đức Chúa Trời. Họ hiểu rằng Đức Chúa Trời chính là Đấng Tác động và Thúc đẩy Tối Cao, Nguồn Năng Lực phía sau tất cả mọi điều mà dân sự của Ngài đang làm.

Đặc điểm thứ ba: Cam kết với Đức Chúa Trời là công việc sẽ hoàn thành. Một người, dầu là nam hay nữ khi được Chúa chọn vào chức vụ lãnh đạo không chỉ cảm thấy có một gánh nặng, có một sứ điệp từ Chúa mà thôi, nhưng cũng phải có sự cam kết với Chúa là công việc của Ngài sẽ được hoàn tất. Sự cam kết của Nêhêmi với công việc Chúa được tỏ ra trong sự mạo hiểm khi ông còn là vị quan tửu chánh của vua. Luật pháp Mêđi-Pherơsơ quy định là nếu một người có vẻ mặt buồn rầu hay thái độ tiêu cực khi đứng trước nhà vua thì sẽ bị xử tử. Dù thế, trong Nêhêmi đoạn 2, chúng ta đọc rằng nhà vua đã hỏi Nêhêmi: “Nhân sao mặt mày ngươi buồn đến vậy?”(2:2). Nêhêmi kể lại rằng ông sợ hãi và thầm cầu nguyện,sau đó ông tâu với vua: “Nguyện vua vạn tuế! Lẽ nào mặt tôi không buồn khi cái thành, là nơi có mồ mả của tổ phụ tôi, bị phá hoang, và các cửa thành bị lửa thiêu đốt?”(2:3) Đức Chúa Trời ở cùng Nêhêmi vì nhà vua đã hỏi:“Ngươi cầu xin cái gì?”(2:4). Sau một lời cầu nguyện nhanh, Nêhêmi tâu với vua: “Nếu vua thấy điều đó là tốt lành, nếu kẻ tôi tớ vua được ơn trước mặt vua, xin vua hãy sai tôi về Giuđa, đến thành có mồ mả của tổ phụ tôi, để tôi xây cất thành ấy lại”(2:5). Nhà vua không những thuận phê chuẩn lời cầu xin của ông, mà còn ban cho ông cả vật liệu xây dựng nữa. Đức Chúa Trời đã ban phước cho Nêhêmi vì lời cam kết của ông trong công việc Chúa.
Đặc điểm thứ tư : Một khải tượng cho công việc của Đức Chúa Trời. “Ở đâu không có khải tượng, dân sự bị hư mất” (Châm ngôn 29:18). Người lãnh đạo công việc Chúa phải có một khải tượng và phải chia sẻ khải tượng đó. Khi Nêhêmi trở về Giêrusalem, ông đã tự mình thanh sát tình trạng của thành cho đến khi có được tất cả thông tin cần thiết. Rồi ông gặp các thầy tế lễ, những người quyền quý và các quan trưởng, bảo họ rằng: “Hãy đến, xây lại vách thành Giêrusalem!” (17) Khi xác định điều cần làm, ông nói cho những người khác biết.
phải tập trung vào công việc của Đức Chúa Trời.
mùa cho Đức Chúa Trời, và dâng con đầu lòng của mình cùng con đầu lòng súc vật lên cho Đức Chúa Trời. Dân sự của Đức Chúa Trời hứa với Nêhêmi rằng họ sẽ dâng cho Chúa một phần mười của mọi thứ. Nêhêmi biết điều gì là ưu tiên nhất, và ông hướng dẫn dân sự theo điều đó.

tuyển lựa trên toàn đế quốc Pherơsơ, họ được đưa về sống trong hậu cung A. Tại đây họ được phát cho những hương phẩm cần dùng cho sự tẩy uế trong một năm. Sau đó họ được triệu đến để ngủ với nhà vua. Sáng hôm sau, họ được đưa về hậu cung B, là nơi mà họ sẽ sống suốt quãng đời còn lại, họ chỉ được gặp lại nhà vua khi nào được đòi đến. Thường thì vua đã quá say đến nỗi không nhớ người thiếu nữ nào đang có mặt ở đó. Theo cách nhìn của một vị quốc vương thì mục đích của đời sống người thiếu nữ đó là được trải qua một đêm với vua và ông không còn nhớ đến nữa.
Êxơtê xinh đẹp lạ thường vì thế nàng bị buộc tham dự vào cuộc tuyển chọn. Mạcđôchê căn dặn Êxơtê không được nói cho ai biết nàng là người Giuđa. Điều đó cũng bày tỏ sự dự phòng
của Đức Chúa Trời trong cuộc đời Êxơtê.
Khi Êxơtê được triệu đến với vua Xétxe, vua yêu thích nàng hơn tất cả và lập nàng làm hoàng hậu của xứ Mêđi-Pherơsơ. Đức Chúa Trời đã đặt một thiếu nữ Giuđa lên ngai vàng của đế quốc hùng mạnh nhất thế giới (nhiều năm sau đó, vua ẠttaXétxe, con trai của Êxơtê, cho phép Nêhêmi trở về và xây lại bức tường thành Giêrusalem).
chuyện hấp dẫn nầy.
“Ngươi hãy đi và làm như thế cho Mạcđôchê!”, vua phán với Haman. Ông kinh ngạc và cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng buộc phải tuân lệnh (6:10). Sau đó Haman trở về nhà cách buồn thảm pha lẫn nỗi sợ hãi.