
Chương 1: CẤU TRÚC KINH THÁNH

Từ vựng “Kinh Thánh” đến từ chữ Latinh “Bilia” có nghĩa là “những quyển sách”. Vì thế, “Kinh Thánh” có nghĩa đơn giản là “tập hợp những quyển sách”, nói cách chính xác là 66 quyển. Từ “Thánh” có nghĩa là “thuộc về Đức Chúa Trời” hoặc “đến từ Đức Chúa Trời”. Nói tóm lại, Kinh Thánh có nghĩa là “tập hợp những sách đến từ Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời”.
sự “hà hơi”. II Phierơ 1-21 chép: “Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời”.
Từ “cảm động” theo tiếng Hy Lạp có một ý nghĩa thật sinh động. Đây là hình ảnh một con thuyền đang trôi theo dòng nước hoặc là ngọn gió khiến cho chiếc thuyền buồm chuyển động, là điều mà Phierơ muốn mô tả để chúng ta dễ hình dung.
Cấu Trúc Kinh Thánh.
Hai phần chính của Kinh Thánh là Cựu ước và Tân ước. Trong thời kỳ Chúa Jêsus sống trên đất, không có sự phân chia giữa Cựu ước và Tân ước. Tân ước vẫn chưa được viết ra, vì thế, những sách đã có trong thời Chúa Jêsus thường được gọi là “ lời của Đức Chúa Trời” hoặc “sách Thánh”. Sau khi Tân ước được viết và thu thập lại thì xuất hiện sự phân chia tự
nhiên giữa Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước.
Ngoài hai phần chính là Cựu ước và Tân ước, trong mỗi phần nầy cũng được chia nhỏ ra. Cựu ước gồm có 5 thể loại khác nhau.
Đầu tiên là năm sách luật pháp, trong đó Đức Chúa Trời dạy chúng ta phân biệt thiện ác và tiêu chuẩn công bình của Ngài.
Kế đến là mười sách lịch sử, chủ yếu chép lại việc dân sự Đức Chúa Trời qua sự vâng phục, hoặc bất tuân luật pháp Ngài. Những câu chuyện về lịch sử Ysơraên là tấm gương và sự cảnh cáo đối với chúng ta. Câu Kinh Thánh chìa khóa về lịch sử dân Ysơraên được trưng dẫn trong Tân ước. Sứ đồ Phaolô cho biết mọi sự xảy đến với dân Ysơraên được ghi lại trong Kinh Thánh như là những tấm gương và lời cảnh báo cho chúng ta. Khi vâng phục mạng lệnh Đức Chúa Trời, họ là tấm gương cho chúng ta noi theo; khi làm theo ý riêng, họ là sự cảnh tỉnh đối với chúng ta.
tấm lòng con dân Chúa khi gặp đau khổ. Sách Thi thiên khích lệ con dân Chúa khi thờ phượng Ngài. Sách Châm ngôn dạy về sự khôn ngoan trong cuộc sống và mối giao tiếp với người chung quanh. Sách Nhã ca của Salômôn đi vào tấm lòng những con người đang tràn ngập tình yêu. Mỗi sách chứa đựng những sự giúp đỡ và lời khuyên thực tế dành cho con người.

Trước hết chúng ta hãy suy nghĩ về tác giả của Kinh Thánh. Như chúng ta đã nói, chính Đức Chúa Trời là tác giả và Ngài cảm thúc nhiều người để viết nên Kinh Thán. Chúng ta sẽ đề cập về những nhân vật nầy sau, bây giờ, có hai khái niệm chúng ta cần hiểu khi nói chính Đức Chúa Trời viết nên Kinh Thánh. Khái niệm thứ nhất là sự mặc khải. Mặc khải là khái niệm tổng quát về mọi phương cách mà Đức Chúa Trời dùng để bày tỏ cho con người qua thiên nhiên, qua Đức Thánh Linh, qua các tiên tri và nhiều cách khác. Khái niệm thứ hai là sự thần cảm, là điều mà những nhà thần học gọi là “Mặc khải đặc biệt”. Kinh Thánh là sự mặc khải đặc biệt của Đức Chúa Trời từ trang đầu cho đến trang cuối. Trong thời gian khoảng 1600 năm, Đức Chúa Trời đã cảm thúc nhiều người để viết nên Kinh thánh, nhưng khi chữ cuối cùng của sách Khải huyền được viết ra thì sự mặc khải đặc biệt đó được hoàn tất và không còn tiếp diễn nữa.
Những sách Tân ước, hầu hết viết bằng tiếng Hylạp, được chọn lọc và biên soạn lại vào khoảng năm 692 S.C tại Giáo hội nghị Trullan. Tiêu chuẩn của những sách được chọn gọi là sự kinh điển hóa, đòi hỏi ba điều kiện:
1. Có phải đây là sách do một sứ đồ hay là bạn cùng làm việc với sứ đồ viết ra?
2. Có phải đây là sách chứa những giá trị thuộc linh sâu nhiệm cho Cơ đốc nhân?
3. Có phải đây là sách hiệp nhất về mặt nội dung với những sách đã được linh cảm khác của Kinh Thánh, và không gây ra sự bất đồng về mặt thần học giữa các Hội thánh?

Trước hết là quan sát. Khi đọc qua một phân đoạn Kinh Thánh, bạn nên đặt câu hỏi: “Phân đoạn Kinh Thánh nầy nói gì?” Đến bước giải thích, bạn đặt câu hỏi: “Điều nầy có ý nghĩa gì?” Tiếp theo là bước ứng dụng, câu hỏi bạn đặt sẽ là: “Phân đoạn Kinh Thánh nầy dạy dỗ tôi điều gì?” Bước đối chiếu: “Phân đoạn Kinh Thánh nầy liên quan đến những khúc Kinh Thánh khác như thế nào?”
• Có gương mẫu nào tôi cần làm theo?
• Có những lời cảnh cáo nào tôi cần phải tránh?
• Có những mạng lệnh nào tôi phải vâng theo?
• Có tội lỗi nào tôi cần phải lìa bỏ?
• Có những lẽ thật nào về Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus hoặc Đức Thánh Linh?
• Có những lẽ thật nào mới mẻ cho bản thân tôi? Khi học Kinh Thánh, bạn cần phải tuân theo một số nguyên tắc chủ đạo. Điều thứ nhất, khi đến với một phân đoạn Kinh Thánh, hãy nhớ rằng: Cho dù chỉ có một sự giải thích, nhưng có thể có rất nhiều ứng dụng. Bạn có nhiều ứng dụng thật sâu sắc cho chính mình trong một phân đoạn Kinh Thánh, nhưng hãy sẵn lòng để Đức Thánh Linh hành động trên người khác cũng qua khúc Kinh Thánh đó.Thứ hai, Kinh Thánh là quyển sách viết về Đấng Christ nên bạn luôn cần nhìn xem Ngài đang khi học hỏi. Thứ ba, khi đến với những câu khó hiểu hoặc tối nghĩa, bạn hãy giải nghĩa nó trong ánh sáng của những câu Kinh Thánh liên quan rõ nghĩa hơn. Dựa vào những câu sáng nghĩa sẽ giúp bạn hiểu rõ những câu khó.
Cuối cùng hãy xem xét câu Kinh Thánh theo nội dung tổng thể. Nghiên cứu riêng lẻ một câu tách rời khỏi văn mạch của Kinh Thánh thường dẫn đến việc giải thích sai lầm.
Sau khi nắm được những điều cơ bản khi đọc Kinh Thánh, bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu sách Sáng thế ký, quyển sách đầu tiên. Cầu xin lời Chúa đầy dẫy tấm lòng bạn khi chuyêntâm học hỏi lời Ngài.

Đây là quyển sách đầu của Kinh Thánh và cũng là sách nói về nhiều sự khởi đầu. Điều đầu tiên được tường thuật là sự sáng tạo thế giới.
Trong Sáng thế ký, Đức Chúa Trời kể câu chuyện về con người thuở ban đầu và hiện nay. Điều nầy giúp chúng ta hiểu về chính mình. Ngài cho chúng ta biết sự xuất hiện của tội lỗi và ảnh hưởng của nó đến nhân loại như thế nào.
Chúng ta cần khởi sự đọc sách Sáng thế ký. Hãy tự đặt cho mình những câu hỏi: Sách nầy nói lên điều gì trong quá khứ và hiện nay? Nó đã thay đổi suy nghĩ và đời sống tôi như thế nào?

Sự kiện đầy ý nghĩa nầy chỉ tường thuật trong một chương rưỡi. Tại sao lại như vậy? Như chúng ta đã đề cập trong chương trước, quyển sách nầy được viết không chỉ để nói về sự sáng tạo, mà còn trình bày cho chúng ta hiểu nhiều vấn đề khác. Đức Chúa Trời không bắt buộc phải giải thích cho chúng ta. Ngài không cần tường thuật tỉ mỉ cho chúng ta biết về sự sáng tạo.
thể ở đẹp lòng Đức Chúa Trời, vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng hay thưởng cho những kẻ tìm kiếm Ngài”.
Ngài dựng nên người nam cùng người nữ”.Sách Sáng thế ký mô tả sự khởi đầu của mọi vật trong vũ trụ. Thần Đức Chúa Trời tiếp tục biến đổi và phát triển những tạo vật trong công cuộc sáng tạo ban đầu. Đây là điều mà những nhà khoa học thấy được qua hình thức tiến hoá của sự sống.

Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và tượng ta, đặng quản trị các loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời, Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: “Hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất … Và Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; Ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó… Giêhôva Đức Chúa Trời làm cho Ađam ngủ mê… lấy một xương sườn, rồi lắp thịt thế vào…Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ đưa đến cùng Ađam…Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, hai người sẽ cùng nên một thịt. (Sáng 1:26-28a; 2:18, 2124).
của Đức Chúa Trời trong hôn nhân.

đẹp mắt, chúng đáp ứng về nhu cần lương thực, và còn đem đến cho họ sự sống. Nhưng cũng có một cây đem đến tri thức, và đó là cây Đức Chúa Trời cấm đoán.

không đi đến sự chết.

Hêbơrơ đoạn 11, được xem như là đoạn luận về đức tin của Kinh Thánh: “Vả, không có đức tin thì chẳng hề ở thế nào cho đẹp lòng Đức Chúa Trời, vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời thì phải tin rằng có Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng hay thưởng cho những kẻ tìm kiếm Ngài” (câu 6).
nhiều trường hợp (xem Sáng thế ký 16).
cho ngươi một con trai” (Sáng thế ký 17:15-16). Khi nghe xong, Ápraham bèn sấp mình xuống đất và cười thầm! Sara cũng vậy!
Ysác không chỉ là con trai Ápraham và Sara khi về già mà còn là sự hoàn thành lời hứa của đức tin trong 25 năm. Và bấy giờ, mọi sự dường như đảo lộn khi Đức Chúa Trời muốn ông dâng Ysác làm sinh tế. Ápraham đưa con trai lên ngọn núi với lòng vâng phục những gì Đức Chúa Trời đã phán bảo. Nhưng phút cuối cùng, khi ông minh chứng được lòng vâng phục trọn vẹn của mình, Đức Chúa Trời ban cho một con dê làm sinh tế thế cho Ysác (xem Sáng thế ký 22:1-13). Ápraham gọi nơi đó là “Giêhôva Dirê” nghĩa là “Đức Chúa Trời sắm sẵn”. Tiến trình tăng trưởng đức tin bày tỏ qua những bàn thờ của Ápraham, trên núi mà Đức Chúa Trời đã chọn, tại bàn thờ “Đức Chúa Trời là Đấng trên hết”. Ngài ban cho ông sự thỏa lòng trong suốt 25 năm sống bởi đức tin. Ápraham đã không dâng Ysác tại bàn thờ thứ tư. Chính tại đây Ápraham đã dâng trọn đời sống ông cho Chúa.

Hãy xem điều gì đã xảy ra tiếp theo trong câu chuyện Giacốp. Sau 20 năm làm việc vất vả tại nhà người cậu Laban, Giacốp đã trải qua kinh nghiệm thuộc linh sâu nhiệm với Đức Chúa Trời. Điều nầy được kể lại trong Sáng thế ký đoạn 32: “Một người vật lộn với Giacốp đến rạng đông. Khi Người đó thấy mình không thắng nổi, bèn đánh vào xương hông của Giacốp; xương hông Giacốp liền trặc trong khi vật lộn.
Người đó bèn nói: ‘Trời đã rạng đông, thôi hãy để cho Ta đi’. Nhưng Giacốp đáp rằng: ‘Tôi chẳng cho người đi đâu, nếu người không ban phước cho tôi’. Người đó hỏi: ‘Tên ngươi là chi?’ Đáp rằng: ‘Tên tôi là Giacốp’ Người lại nói: ‘Tên ngươi sẽ chẳng là Giacốp nữa, nhưng là Ysơraên vì ngươi đã vật lộn cùng Đức Chúa Trời và người ta; và ngươi đều thắng’.
Giacốp hỏi: ‘Xin cho tôi biết tên người?’ Đáp rằng: ‘Làm sao ngươi hỏi tên Ta?’ Rồi người nầy ban phước cho Giacốp tại đó. Giacốp đặt tên chỗ đó là Phinêên, vì nói rằng: ‘Tôi đã thấy Đức Chúa Trời đối mặt cùng tôi và linh hồn tôi được giải cứu”(24-30).
Đôi khi do tấm lòng chúng ta cứng cỏi nên Đức Chúa Trời phải sửa dạy chúng ta, khiến chúng ta tin cậy nơi Ngài. Đây là điều xảy ra với Giacốp và cuối cùng ông đã nhận được bài học nầy. Khi hai anh em gặp lại nhau, lúc đó Êsau đã không còn nhớ đến thù xưa mà chạy đến ôm choàng cổ Giacốp mà hôn. Giacốp nói với anh mình rằng: “Đức Chúa Trời cho em đầy dẫy ân huệ” (Sáng thế ký 33:11). Ân huệ là điều Đức Chúa Trời ban cho chúng ta mặc dù chúng ta không xứng đáng. Chúng ta nhận lãnh ân huệ bởi lòng thương xót của Ngài.
Ngài.
Bạn có đang nhìn chung quanh để nhận biết rằng Đức Chúa Trời muốn mình làm gương tốt cho những người lân cận không?

Giôsép xuất hiện như là một trong những nhân vật toàn hảo của Kinh Thánh. Hầu hết các nhân vật trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời bày tỏ những ưu điểm cũng như nhược điểm của họ, riêng với Giôsép, là một trong những ngoại lệ (một người nữa là Đaniên, chúng ta sẽ nghiên cứu sau).Câu Chuyện Giôsép.

Bắt đầu sách Xuất Ê-díp-tô ký, họ vẫn chưa trở nên một quốc gia nhưng dân số tiếp tục gia tăng. Trước khi trở thành quốc gia, họ cần có một nhà lãnh đạo. Sách Xuất Ê-díp-tô ký sẽ cho chúng ta biết về một nhà lãnh đạo lớn trong suốt lịch sử Ysơraên, đó là Môise.

quyền lực của nó.
do.Môise đã mang lại điều họ mong ước hơn hết. Sau đó, ông cũng đem đến cho những con người mới được tự do điều quan trọng khác, đó là luật pháp.
hành lễ. Những nhà thờ và nhà hội Do Thái giáo vẫn còn duy trì cách thức thờ phượng nơi Đền tạm mà Đức Chúa Trời đã hướng dẫn Môise.
kém. Nếu hôm nay bạn được Đức Chúa Trời dùng để giải cứu người khác, nếu bạn ước ao bạn bè và người thân yêu được giải cứu khỏi sự nô lệ tội lỗi, hãy nhớ rằng: Bạn không phải là
người giải cứu, mà là chính Đức Chúa Trời.

Bí quyết để một người trở nên công cụ giải cứu của Đức Chúa Trời có thể tóm gọn: “Không phải ngươi, nhưng chính Ta là Đấng giải cứu. Bởi sức riêng, ngươi chẳng thể giải cứu một ai, nhưng Ta thì có thể và Ta ở cùng ngươi”. Bí quyết nầy thật sự quan trọng đối với Môise cũng như chúng ta ngày nay. Đức Chúa Trời đã dạy Môise điều nầy tại bụi gai cháy.
Một số người có nhiều khả năng nhưng thiếu tinh thần sẵn sàng. Một số người khác thiếu khả năng, nhưng luôn sẵn sàng. Kinh Thánh cho biết khả năng là điều không thành vấn đề,nhưng quan trọng là ở tinh thần sẵn sàng. Trong công việc Chúa, khả năng lớn nhất là tấm lòng sẵn sàng.
Tôi không thể nhưng Chúa toàn năng ở cùng tôi
Tôi không muốn nhưng Chúa muốn và Ngài ở cùng tôi
Tôi không làm nhưng Ngài làm qua tôi.
Tôi gọi đây là “Bốn bí quyết thuộc linh”.

Nhiều người tin rằng Môise là hình bóng của Chúa Jêsus, Đấng giải cứu chúng ta; Pharaôn là hình bóng của Satan, đại diện cho điều ác. Lực thúc đẩy Môise và Pharaôn hành động cũng chính là động lực thúc đẩy Chúa Jêsus và Satan hành động trên sự cứu rỗi của chúng ta ngày hôm nay.
Hãy xem xét lời Pharaôn nói trong Xuất 8:25 sau khi Môise yêu cầu để các con trẻ Ysơraên cùng đi dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời: “Hãy đi dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời các ngươi tại trong xứ, chớ lìa khỏi xứ!”Sau đó, Pharaôn lại đồng ý cho dân sự đi dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời nhưng gợi ý rằng: “Vậy thì các ngươi hãy đi, nhưng chớ đi quá xa” (câu 28). Đây cũng là điều thường xảy đến cho người mới tin Chúa: “Được rồi! Nếu bạn là Cơ Đốc Nhân thì hãy tiến bước trên con đường mình, nhưng tôi hy vọng rằng bạn đừng quá cuồng tín. Tôi muốn rằng bạn không đi quá xa và quan trọng hóa niềm tin của mình”.
hình bóng của sự cứu rỗi của chúng ta.
chúng con đồ ăn đủ dùng”. Trước khi ăn, chúng ta cảm ơn Chúa vì nhận biết Ngài là nguồn cung ứng thức ăn và mọi nhu cầu khác của chính mình. Phép lạ Đức Chúa Trời thực hiện trên dân Ysơraên trong suốt 40 năm lang thang trong đồng vắng nhắc nhở chúng ta về sự tể trị của Ngài.
và bôi huyết nó hai bên mày cửa của họ. Đây là hình ảnh về thập tự giá của Đấng Christ, là hình ảnh chúng ta vượt qua sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus là chiên con của
Đức Chúa Trời, đã chết thay cho chúng ta. Huyết Ngài đã đổ ra để cứu chúng ta. Chúa Jêsus là Chiên con của Đức Chúa Trời, là hình bóng của chiên con lễ Vượt Qua.
Tôi mong rằng khi bạn đọc Xuất Ê-díp-tô ký sẽ nhận biết được những phép lạ giải cứu dân Ysơraên cũng là hình bóng về sự giải cứu bạn và tôi ngày nay.

Mười điều răn được chép trên hai bảng đá. Bảng thứ nhất gồm 4 điều răn đầu dạy chúng ta trong mối tương giao với Đức Chúa Trời.
2. Ngươi chớ thờ lạy thần tượng.
3. Ngươi chớ lấy danh Ta làm chơi.
4. Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.
Bốn điều răn nầy dạy cho con người biết cách tương giao với Đức Chúa Trời.
Bảng thứ hai gồm 6 điều răn, dạy rõ cách quan hệ giữa con người với nhau.
5. Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.
6. Ngươi chớ giết người.
7. Ngươi chớ phạm tội tà dâm.
8. Ngươi chớ trộm cướp.
9. Ngươi chớ nói chứng dối.
10. Ngươi chớ tham lam.
lầm. Chúng ta không được nhắc đến danh Chúa cách bất cẩn, vô ý thức hoặc thiếu tôn trọng, ngay cả khi đang thờ phượng Ngài.
Ứng dụng khác của nguyên tắc Sabát là sự nghỉ ngơi thể xác. Khi vi phạm tinh thần của điều răn thứ tư con người sẽ gánh lấy sự căng thẳng tinh thần và kiệt quệ về thể xác.
Sáu điều răn còn lại dạy chúng ta thiết lập mối quan hệ đúng đắn với người xung quanh. Điều đầu tiên liên quan đến cha mẹ bạn. Trong trường hợp thông thường đây là những người mà bạn phải quan tâm trước hết.
Một trong những cách nói dối tinh vi đó là nói sai sự thật hoặc nói một phần sự thật. Người ta trở thành những chuyên gia về mặt nầy khi muốn làm mất danh dự của ai đó. Nhưng điều răn nầy vạch trần tất cả khi dạy rằng: “Ngươi chớ làm chứng dối”. Bất luận như thế nào, khi gây ra một ảnh hưởng xấu, dù ít hay nhiều, thêm hoặc bớt, bạn đã vi phạm điều răn thứ 9.Tinh thần của điều răn thứ 9 là phải bày tỏ sự thật qua lời nói, thái độ hoặc những phương cách khác.