
Giới Thiệu Các Sách Phúc Âm & Khảo Cứu Mathiơ
Biên Soạn: Dick Woodwar


sống lại từ kẻ chết của Ngài chính là nhiệm mạng đầu tiên, và dĩ nhiên đó cũng là công việc ưu tiên hàng đầu của Ngài.Một phần ba nội dung các sách Phúc âm ký thuật việc Chúa Jêsus đã làm ứng nghiệm ra sao sứ mệnh đầu tiên mà Cha Ngài đã giao phó cho Ngài, khi Đức Chúa Trời vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài chịu chết trên cây thập tự để cứu rỗi chúng ta (Giăng 3:15-19). Các sứ đồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công cuộc cứu rỗi nầy của Chúa Jêsus trong (IPhierơ 1:18-19; 2:24; IICôrinhtô 5:19,21-6:1-2).
luận cho cái nhìn chung mang tính chất giới thiệu về các sách Phúc âm nầy bằng lời nhận xét rằng bốn sách đầu của Kinh thánh Tân ước có ít nhất là một phần ba nội dung dành để ký thuật những lời Chúa Jêsus đã phán.Chúa Jêsus tuyên phán rằng: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống”, và chúng ta không thể đến với Đức Chúa Trời bằng con đường nào khác (Giăng 14:6). Khi Ngài bảo cho chúng ta biết Ngài chính là Con Đường dẫn tới Đức Chúa Trời, tức là Ngài muốn ám chỉ đến công việc của Ngài trên thập tự giá để đem lại con đường duy nhất cho chúng ta, hầu cho chúng ta có thể được phục hòa với Đức Chúa Trời mà bấy lâu nay chúng ta lìa xa và phục hồi mối tương giao với Cha Thiên Thượng của mình.Khi Chúa nói với chúng ta Chúa là Sự Sống, có nghĩa là Ngài đang ngụ ý về các phép lạ của Ngài, kể cả việc ban cho chúng ta sự sống đời đời và thay đổi cuộc đời của những người nam và người nữ tin nơi Ngài và được Ngài chữa lành cả về thuộc linh, tình cảm và thân thể. Khi tuyên bố là Lẽ Thật, hiển nhiên Ngài muốn nói đến sự dạy dỗ và chức vụ rao giảng của Ngài.
Khi Chúa Jêsus phán Ngài là Lẽ Thật, và khi Giăng mô tả Ngài là Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (Giăng 1:14), chúng ta sẽ thấy một chức vụ mà Chúa Jêsus không thể nào hoàn thành chỉ trong một buổi chiều. Đức Chúa Trời đã ban Lời Ngài cho chúng ta như đã được chép, nhưng theo ý Ngài và theo kế hoạch của Ngài thì chính Chúa Jêsus sẽ ban cho chúng ta còn nhiều hơn những Lời đã được chép đó. Giăng mô tả những điều Chúa Jêsus ban cho chúng ta như vầy: “Vì luật pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến” (Giăng 1:17). Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lẽ thật qua Môise và Kinh thánh Cựu ước. Còn qua Chúa Jêsus, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lẽ thật và ân sủng hay “ân tứ” để sống theo lẽ thật đó. Chúa Jêsus không chỉ ban cho chúng ta lẽ thật, song chính Ngài cũng là Lẽ Thật. Ngài không chỉ nói cho chúng ta biết cần phải sống đời sống như thế nào, mà Ngài còn sống đúng theo đời sống đó nữa vì Ngài chính là Sự Sống. Mọi sự là Ngài, mọi việc Ngài làm, mọi điều Ngài nói đều là chân lý mà Đức Chúa Trời muốn truyền đạt cho chúng
ta qua Con Ngài. Đó là lý do tại sao Phúc âm Giăng mô tả Chúa Jêsus là Lời hằng sống (Giăng 1: 1,14).

của Ngài qua Phúc âm Mathiơ, chúng ta sẽ thấy có hai tình tiết hầu như đồng nhất với nhau. Một lần nữa Chúa Jêsus nhìn thấy đoàn dân đông thì lại động lòng thương xót. Lần nầy,đoàn dân có thêm một nan đề là đang đói khát. Các sứ đồ đề nghị Chúa hãy bảo dân chúng đi đâu đó mua thức ăn. Chúa liền thách thức các sứ đồ: “Các ngươi hiện có tất cả bao nhiêu ổ bánh?” Chúa bảo họ hãy nói với dân chúng đừng đi đâu cả, bởi vì họ chính là những người được Chúa ủy nhiệm và cũng là những người đại diện của Ngài, cho nên họ có thể đáp ứng các nhu cầu đó cho đoàn dân. Đây là câu chuyện khá quen thuộc, là phép lạ duy nhất của Chúa Jêsus được ký thuật trong cả bốn sách Phúc âm, trên thực tế đây là một ẩn dụ về khải tượng truyền giáo của Chúa Jêsus (14:14-36; 15:32-39).


va chạm với nền văn hóa của thế tục. Vấn đề cơ bản ở đây: “Bạn là người đang có nan đề hay là người cùng tham gia với Chúa Jêsus để giải quyết các nan đề? Bạn là một trong những câu trả lời của Ngài hay bạn vẫn đang là người nêu lên những câu hỏi?”Có một “đường ranh phân chia thuộc linh” tưởng tượng giữa phước lành thứ tư và thứ năm. Xuyên suốt Kinh thánh chúng ta thấy có một mô hình nổi bật khi Chúa kêu gọi và huấn luyện các nhà lãnh đạo cho công việc Ngài. Những nhà lãnh đạo nầy có điều mà chúng ta có thể gọi là: “kinh nghiệm đến” và “kinh nghiệm ra đi”. Họ đã đến với Chúa một cách có ý nghĩa trước khi ra đi kết quả cho Ngài. Họ là người thờ phượng Đức Chúa Trời trước khi trở nên nhân sự cho Ngài. Bốn phước lành đầu tiên giới thiệu những thái độ mà chúng ta cần học để đến với Đức Chúa Trời, và bốn phước lành kế tiếp phác họa những thái độ chúng ta cần học để ra đi cho Ngài.Tài năng có thể được phát huy trong nơi tĩnh lặng, nhưng tính cách thì phải được phát huy giữa dòng đời, hoặc trong khi chúng ta tiếp xúc, quan hệ với người khác. Bốn phước lành đầu tiên được phát triển trên núi, hoặc ở trong nơi mà sau đó Chúa Jêsus mô tả như là kinh nghiệm “riêng tư” giữa chúng ta với Đức Chúa Trời (Mathiơ 6:6). Chúng ta có thể học hỏi và nuôi dưỡng bốn phước lành đầu tiên trong mối tương giao cá nhân với Đức Chúa Trời, còn bốn phước lành kế tiếp thì chúng ta phải học và phát huy qua mối thông công với mọi người. Các phước lành được chia làm bốn phần, mỗi phần hai phước lành: nghèo khó về tâm linh là người than khóc; nhu mì là người khao khát sự công nghĩa; người hay thương xót là người có lòng trong sạch; và người làm cho kẻ khác hòa thuận là người chịu sự bắt bớ. Mỗi cặp câu nói về các phước lành đều phát thảo sơ lược cái nhìn thuộc linh nào đó, mà hễ ai là môn đồ Chúa Jêsus thì đều phải học nó trước khi có thể dự phần cùng Ngài giải quyết các nan đề, và trở nên một trong những câu trả lời của Ngài.
đề không phải tôi đã làm gì mà là Chúa đã làm gì”.Cuối cùng, dường như thể các phước lành đang dẫn dắt chúng ta leo dần lên núi. Phước lành thứ nhất đưa chúng ta lên núi bằng con đường ngắn nhất. Phước lành thứ hai dẫn chúng ta đi xa hơn một chút. Trên đường leo lên núi, sự nhu mì đã chuyển chúng ta từ phước lành thứ ba sang phước lành thứ tư. Và sự đói khát điều công bình của chúng ta dẫn đưa chúng ta lên tới đỉnh núi. Các phước lành “leo núi” nầy là các phước lành đang đến gần.
Mọi sự tĩnh tâm rồi cũng kết thúc, và những người tham dự phải rời khỏi núi. Các phước lành sẳn có sẽ đưa chúng ta rời khỏi núi một lần nữa. Khi một môn đồ được no nê sự công bình của Đức Chúa Trời, thì họ sẽ trở nên như thế nào? Phải chăng họ sẽ giống những người Pharisi tự mãn, và tuân thủ luật pháp cách tuyệt đối? Không, chúng ta đọc thấy rằng họ có lòng thương xót, và họ thương xót với một tấm lòng trong sạch. Họ có được điều đó vào lúc xuống núi tham gia cùng với Chúa giải quyết các nan đề của đoàn dân đông đang có nhu cầu. Khi các môn đồ là người hòa giải thì họ sẽ gặp sự bắt bớ, chúng ta biết họ lại có mặt tại chân núi một lần nữa là nơi mọi nan đề đang tồn tại.
vời của phước lành nầy. Nếu bạn sắp sửa rời núi để trở thành giải pháp cho những ai đang bị tổn thương, thì ắt hẳn bạn phải được đổ đầy tình yêu của Đức Chúa Trời. Đầy dẫy sự công bình đồng nghĩa với đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời.

chọn một chân đèn để đặt cây đèn ấy lên theo ý định của Ta”. Chúa Jêsus phán: “Các ngươi phải là cây đèn được đặt trên chân đèn”.
Tiếp Tục Sự Ứng Dụng
dụng của họ vẫn tiếp tục cho đến lúc họ nhận thấy rằng họ không thể cùng tồn tại với Ngài, nên đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá.
Nguyên nhân phổ biến dẫn đến tệ nạn ly dị trong thời đại ngày nay là sự thiếu chung thủy. Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly dị lan tràn hiện nay là sự thiếu chung thủy. Khi nạn ly dị lan tràn, thì có nghĩa là đã xảy ra tệ nạn gia đình suy giảm chức năng khiến cho con cái bị tổn thương. Nhiều người đang đau đớn và khổ sở tại “chân núi”, vì những người đàn ông đã thất bại trong sự cám dỗ như Chúa Jêsus vừa nói đến ở những câu trên (5:27-30).Các môn đồ cũng được dạy là không thề thốt như người Pharisi. Hễ điều gì phải thì nói “phải”, điều gì không nói “không”. Họ không chỉ là người có Lời (Kinh thánh), mà còn là người biết giữ lời hứa, họ phải là người chính trực (5:33-37).
“Là một môn đồ, các ngươi phải khác”. Có một cách dịch diễn đạt câu hỏi nầy của Chúa Jêsus như thế nầy: “Nếu các ngươi chỉ yêu những người yêu mình thì các ngươi sẽ nhận lãnh
được ơn phước gì? Nếu các ngươi chỉ yêu kẻ yêu mình, thì thái độ đó là lẽ thường tình”.

sách ghi những thứ cần mua sắm, rồi chúng ta sai Ngài chạy lo những việc vặt cho chúng ta.
tờ lịch cũ của năm năm qua xem thử mình đã sử dụng thì giờ cho những việc gì”.
tiên đặt Đức Chúa Trời và Vương quốc của Ngài lên hàng đầu.
Hãy Nhìn Vào (7:1-5)
ra một hạt mùn cưa trong mắt anh em mình, trong khi chúng ta lại đang có một khúc gỗ nằm trong mắt. Chúng ta hãy nhìn vào chính mình và xin Chúa phán xét bản thân chúng ta trước,
rồi sau đó chúng ta mới có thể giúp đỡ người khác. Bởi vậy, chúng ta cần quyết định nhìn vào và lấy khúc gỗ ra khỏi mắt mình trước khi chúng ta chăm sóc người khác. Chúa Jêsus khuyên chúng ta đừng làm kẻ đạo đức giả hay chỉ trích những chuyện nhỏ nhặt của người khác.
Lời Mời Gọi (7:13-27)

nghe, ngay tại nơi chúng ta đang sống.
bốn người trong số các sứ đồ là những chiến sĩ của đảng Xêlốt.
Họ đã sống bởi đức tin.
sự thật của ngày hôm nay.
Ngài ủy thác sứ mệnh của Ngài ở thế gian:
2. Cơ hội gặp Chúa Jêsus đã đem lại kết quả thế nào cho họ?
3. Họ đã tử vì đạo ở đâu, lúc nào?
4. Họ phải chịu chết giữa lúc đang làm gì?
5. Qua những điều bạn học được từ Kinh thánh và những nguồn tư liệu khác, hãy cho biết họ đã chết như thế nào?
6. Tại sao Chúa Jêsus lại chọn người cá biệt nầy làm sứ đồ?

Một số hạt rơi trúng nơi có nhiều đất thịt ẩm ướt, hạt liền châm rễ ra. Nhưng khi cây bắt đầu mọc thì bất ngờ chúng gặp phải cỏ dại lấn lướt, khiến cho nghẹt ngòi đến nỗi không cách gì ra trái được.
kết trái – Một vài hạt ra được ba mươi hạt, hoặc ra được sáu mươi, và hoặc ra được một trăm – gấp rất nhiều lần số hạt lúc mới gieo.
Lẽ thật của ẩn dụ có ý nghĩa sâu sắc nầy rất rõ ràng cho những ai dạy dỗ hoặc rao giảng Lời Chúa. Khi Lời Chúa được dạy dỗ hoặc rao giảng, sẽ luôn có bốn loại người nầy ở đó, và nhờ sự nhận biết sáng suốt mà diễn giả hoặc giáo sư dạy lời Chúa có thể chỉ từng loại người trong số họ ra cho bạn thấy.
phải dạy thật đơn giản để họ có thể hiểu được. Chúng ta cũng phải cầu nguyện để sự dạy dỗ hoặc rao giảng của chúng ta được Đức Thánh Linh dùng để tác động sâu vào ý chí của những người nghe lời giảng và dạy của chúng ta.
vụ 6:4).
cũng sẽ đánh bại họ và đó là điều hiển nhiên”.
quốc mà Chúa Jêsus đang giảng giải cho đến khi chúng ta thấy được nó là thứ vĩ đại nhất mà chúng ta chưa từng thấy bao giờ. Nước thiên đàng đáng để chúng ta vui mừng đón nhận.
Ẩn dụ nầy có ảnh hưởng rất nhiều đến Bài Cầu Nguyện của Các Môn Đồ. Chúa Jêsus dạy chúng ta hãy cầu xin Chúa tha nợ cho chúng ta như chúng ta tha kẻ mắc nợ chúng ta. Ngài
tiếp tục chỉ dạy với những lời đáng sợ là nếu chúng ta không tha thứ cho kẻ vi phạm cùng chúng ta, thì Cha chúng ta cũng sẽ không tha thứ cho sự vi phạm của chúng ta.
thấy cả Chúa Jêsus và Giăng Báptít đều ở trong vườn nho và đang làm công việc của Cha.Mặc khác, các nhà lãnh đạo tôn giáo nói một đàng, làm một nẻo, chỉ lý thuyết suông mà không thực hành. Qua tất cả những trang phục là áo choàng ngoài, lễ phục và các phù hiệu
biểu hiện địa vị xã hội mà họ đang mặc, đang đeo trên người, họ muốn chứng tỏ rằng họ là con cái Đức Chúa Trời đang làm việc trong vườn nho của Ngài. Tuy nhiên căn cứ trên sự thi
hành công việc của họ, thì rõ ràng họ không hề có mặt trong vườn nho của Cha và cũng không làm việc cho Ngài.
Ngài chưa hề viết cuốn sách nào, cũng không có một cuốn sổ ghi chép. Ngài chưa từng đi đến trường, cũng chưa từng ứng cử vào một chức vụ nào trong bộ máy chính quyền. Ngài không có gia đình, lại chẳng sở hữu nhà cửa gì. Ngài chẳng có gì hết, ngay cả những thứ thường đi kèm với người có địa vị cao trọng. Ngài không có gì ngoài bản thân Ngài.Khi Ngài vừa đến tuổi 33, xu hướng dư luận chung quay sang chống nghịch Ngài, và bạn bè Ngài đã chối bỏ Ngài. Khi Ngài bị bắt, chỉ có rất ít người muốn làm điều gì đó cho Ngài.Sau một phiên tòa xét xử bất công, Ngài bị chính quyền kết án chung với những kẻ phạm tội trộm cướp. Chỉ duy nhất có một người bạn hào phóng đã tự nguyện dâng cho Ngài phần mộ của chính mình làm nơi chôn cất Ngài.
nghiền nát họ ra thành tro bụi.

như các đồ đệ của Ngài vậy. Chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết lời mời nầy là hãy xem xét ý nghĩa Chúa muốn nói đến khi Ngài mời chúng ta nhận lấy “ách” của Ngài trên đời sống chúng ta. Ách không phải là gánh nặng nhưng nó là công cụ để có thể giúp ta cởi bỏ gánh nặng. Hãy thử hình dung ra một chiếc xe bò chở đầy hàng hóa. Sau đó hãy tưởng tượng rằng bạn
muốn tháo con bò ra khỏi xe. Lúc ấy bạn có thể nhận thấy được mục đích của cái ách. Bất cứ một con bò nào cũng không đủ trí thông minh và biết tuân theo nguyên tắc kéo xe, nhưng nó có thể được mang ách để kéo chiếc xe ấy. Ách là một công cụ có thể khiến cho con bò làm được những điều không thể và giúp nó di chuyển được cả chiếc xe bò.
đến với Chúa. Ngài đang mời chúng ta đến để thiết lập mối tương giao với Ngài. Ngài cũng mời chúng ta đến để đối mặt với cuộc sống như Ngài đã đối mặt. Nếu chúng ta nhìn thấy được cuộc sống qua các giá trị và nguyên tắc thuộc linh của Ngài thì chúng ta sẽ có lời hứa của Chúa rằng chúng ta sẽ tìm được sự yên nghỉ cho linh hồn mình, sẽ được giảm nhẹ gánh nặng và cuộc sống không còn phải lao khổ cố sức nữa nhưng được trở nên dễ chịu bởi vì chúng ta đã được mang ách trong mối tương giao với Chúa.
bố rằng Ngài sắp sửa xây dựng Hội thánh Ngài và các cửa địa ngục không cách gì có thể cản trở được Ngài tiến hành việc ấy. Ngài cũng cho biết Ngài sẽ xây dựng Hội thánh Ngài trên sứ đồ Phierơ.
các dấu ấn, loa và những chén đau đớn kinh khiếp theo lời tiên tri xảy đến (Khải huyền 6-19).
Các sứ đồ hỏi về điềm báo trước của ba biến cố nầy. Chúa Jêsus dạy rằng không ai biết được chính xác thời điểm xảy ra, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy những dấu hiệu như thời
tiết xấu đến gần, và tiếp theo sẽ xuất hiện các dấu hiệu của sự Chúa đến và tận thế. Một trong số những dấu hiệu đó là: chiến tranh giặc giã và những lời đồn đại về chiến tranh (chúng ta gọi những lời đồn chiến tranh là “chiến tranh lạnh”). Các dân các nước sẽ dấy lên đánh nhau (chúng ta gọi những cuộc xung đột nầy là “chiến tranh thế giới”). Đói kém, động đất, sự bỏ đạo xuất hiện cũng là những dấu hiệu. Do đó chúng ta phải luôn xem xét ba biến cố nầy thật nghiêm túc.

đóng đinh chết hẳn. Công dân La Mã có thể không bị đóng đinh bởi vì hình thức tử hình đó là một sự tra tấn khủng khiếp. Nó được xem là sự trừng phạt phi nhân tính, và vì các nạn nhân bị đóng đinh trần truồng, cho nên nó còn là sự xấu hổ và nhục nhã (Mathiơ 27:35; Philíp 2:8).
Trong tập sách kế tiếp, chúng ta sẽ tiếp tục khảo cứu những sách Phúc âm và tôi tin rằng bạn cũng sẽ tiếp tục học hỏi ở những sách tiểu sử tuyệt diệu của Chúa Cứu Thế Jêsus. Để kết luận, tôi muốn hỏi một vài câu hỏi sau: “Bạn có định tìm hiểu về Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế, Đấng Mêsi, và cũng là Đấng Đã Được Hứa Ban hay không? Bạn có tin rằng sự chết của Chúa Jêsus đã làm giá chuộc tội cho bạn hay không? Bạn có quyết định sẽ trở thành môn đồ của Đấng Christ không? Bạn sẽ làm gì với những gì bạn vừa học hỏi?