Chương 1: BẢN TÓM TẮT KHÁI QUÁT THƯ THỨ NHẤT PHAOLÔ GỞI CHO NGƯỜI CÔRINHTÔ

Những Anh Em Yếu Đuối Hơn (Chương 8 -10)
Nhiều tín hữu Côrinhtô cố tranh luận để biết là việc những người ăn thịt đã cúng cho thần tượng là đúng hay sai. Phao lô nói đến đề tài nầy trong chương 8 đến 10. Ông xác định rằng họ không nên ăn thịt đã cúng cho thần tượng vì sẽ gây cớ vấp phạm cho người khác. Tuy vậy, ông cũng nói rõ, thật ra hành động ăn thịt cúng không phải là sự thỏa hiệp trong đức tin của người đó, vì sau tất cả: “Chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chứ không có thần nào khác”(8:4).
bạn yêu thương anh em yếu đuối hơn mình bao nhiêu? Đấng Christ yêu thương họ đủ để chết vì họ. Bạn có yêu thương họ đủ để từ bỏ việc ăn thịt không?
1. Làm mọi việc vì vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
2. Làm điều gì đem kết quả cho sự cứu rỗi những người hư mất và gây dựng những anh em yếu đuối hơn mình.
3. Không làm điều gì vì lợi ích riêng mình.
Phần Gây Dựng Của Thư Côrinhtô (ICôrinhtô 12-16)
Bốn chương cuối của thư là phần có tính cách gây dựng của lá thư dùng để hiệu chỉnh nầy. Những chương nầy cho biết nhiều nguyên tắc được cảm thúc của Phao lô để giải quyết nghĩa bóng của vấn đề. Phao lô bắt đầu: “Hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết về các sự ban cho thiêng liêng”. Những điều thuộc linh mà ông đưa ra là: Các ân tứ của Thánh
Linh, sự sống thuộc thể của Hội thánh, sự yêu thương, chức năng của Đức Thánh Linh khi Hội thánh nhóm họp; áp dụng sự phục sinh và phẩm cách người quản gia trung tín.
sống của các con cái Chúa. Phao lô mô tả về tình yêu thương của ông để bày tỏ cho người Côrinhtô biết cách giải quyết những nan đề trong Hội thánh của họ.
nhau.

là qua âm thanh và trực quan nữa. Chúng ta còn có thể học qua cảm xúc, ý chí, hay qua điều Phaolô gọi là tấm lòng của chúng ta. Tuy nhiên, Phaolô dạy người Côrinhtô rằng họ có thể chỉ học biết những điều thuộc linh qua Đức Thánh Linh mà thôi: “Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời sắm sẵn điều ấy cho những người yêu mến Ngài. Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa” (2:9-10).
mắt, lỗ tai hoặc tấm lòng mà thôi. Theo Phaolô, con người còn phải học lẽ thật thuộc linh qua cánh cổng Đức Thánh Linh nữa.


Hình như, trong thư gởi cho ông, họ hỏi ông là các con của họ nên sống độc thân hay lập gia đình trong hoàn cảnh khó khăn thế nầy. Phaolô nói rành mạch là con gái và con trai còn độc thân của họ sẽ khôn ngoan nếu cứ sống độc thân. Ông không ngăn cấm những người trẻ nầy lập gia đình, nhưng ông dứt khoát khuyến khích họ nên sống độc thân. Bởi điều đó, ông bắt đầu chương nầy bằng lời dạy: “Tôi tưởng rằng đàn ông không nên đụng đến đàn bà là hay hơn” (c.1). Nếu những thanh niên đó quyết định cứ sống độc thân thì ông muốn họ nên giữ mình trước sự cám dỗ về tình dục.
Dù Phaolô khuyên những người trẻ nên sống độc thân, nhưng ông cũng thừa nhận rằng chọn việc lập gia đình không phải là tội: “Song nếu họ chẳng thìn mình được, thì hãy cưới gả;vì thà cưới gả còn hơn để cho lửa tình un đốt”, “Nhưng nếu ngươi lấy vợ, thì chẳng phạm tội gì; và nếu người nữ đồng trinh lấy chồng, thì cũng chẳng phạm tội gì; song những người cưới
gả sẽ có sự khó khăn về xác thịt, và tôi muốn cho anh em khỏi sự đó”, “Nếu có ai tưởng chẳng nên cho con gái đồng trinh mình lỡ thì, và phải gả đi, thì người đó có thể tùy ý mà làm,không phạm tội gì; trong cơn đó, người con gái nên lấy chồng” (c.9,28,36).
Theo Phaolô, Đức Chúa Trời ban cho con người luật pháp vì Ngài muốn con người sống tốt hơn, chứ không muốn con người bị đặt vào sự trói buộc. “Ta phán điều nầy chỉ để giúp đỡ các ngươi, chứ không phải buộc thòng lọng vào cổ các ngươi” (I Côrinhtô 7:35 – Kinh Thánh Giêrusalem).
(17,20,24).

Sự cứu rỗi khiến chúng ta thành những nô lệ đã kết ước của Đấng Christ. Chúng ta không còn tự do để làm điều chúng ta muốn. Chúng ta bị buộc phải làm, như Đấng Christ muốn chúng ta làm, vì quan tâm đến sự cứu rỗi và dẫn đưa người khác đến với sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Áp Dụng Ba Nguyên Tắc Sống Giống Như Đấng Christ

các tín hữu khác trong Hội thánh. Khi điều đó xảy ra, toàn thể Hội thánh được soi sáng hoặc trọn vẹn trong công việc của chức vụ mình. Điều đó giúp họ đến gần và chúc phước cho các tín hữu, đạt tới sự vâng phục Đấng Chí cao.
người khác trong Đấng Christ: “Kẻ nói tiếng lạ, tự gây dựng lấy mình, song kẻ nói tiên tri, gây dựng cho Hội thánh” (14:4).Phaolô cho thấy sự khác nhau giữa ân tứ tiếng lạ với ân tứ nói tiên tri để bày tỏ rằng người đề cao ân tứ nói tiếng lạ là chưa thật sự hiểu biết ân tứ thuộc linh. Họ không hiểu rằng những ân tứ thuộc linh nên được dùng để gây dựng các chi thể trong thân của Đấng Christ. Họ hầu như có khả năng tuôn ra “ngôn ngữ cầu nguyện đặc biệt”, họ dự phần cùng Đức Thánh Linh, mà những người khác trong Hội thánh không có được. Mặc dù ngôn ngữ đó là trong sáng và được ban cho bởi Đức Thánh Linh, nhưng cuối cùng nó nên được dùng để gây
dựng thân thể Đấng Christ qua việc dùng thành viên khác trong Hội thánh có ân tứ thông giải (I Côrinhtô 14:27-28).
tốt lành hơn” (12:31). Trong chương 12, Phaolô đang bàn đến chức năng của Đức Thánh Linh, Đấng ban ân tứ thuộc linh cho các tín hữu. Trong chương 13, Phaolô cho biết sự yêu thương là điều quan trọng nhất trên thế gian nầy: “Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra
gì. Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (13:1-3).
nhất trong thế gian nầy. Hiển nhiên Phaolô đồng ý với sứ đồ Giăng rằng Đức Chúa Trời là tình yêu thương. Đó là lý do tại sao tình yêu thương lại quan trọng nhất trên đất nầy và cũng là vì sao mà tôi không là gì, không có gì, và không bao giờ có thể làm gì để thay thế được sự quan trọng của tình yêu thương trong đời sống mình.
nhục và chịu đựng mọi sự, dung thứ mọi sự và tồn tại lâu dài. Tình yêu thương nầy bền chắc. Khi chúng ta yêu thương một người nào đó bằng tình yêu thương mặc dù, chúng ta có thể nói với họ dù họ có nói hoặc làm gì đi nữa thì cũng không ngăn được lòng yêu thương của chúng ta đối với họ, vì chúng ta đã yêu thương họ bằng tình yêu thương mặc dù của Đức Chúa Trời, và tình yêu thương của Ngài thì rất bền vững. Xét cho cùng, đây là cách Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng ta. Trong khi chúng ta còn đang sống trong tội lỗi, Đức Chúa Trời đã tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta bằng cách sai Con Ngài đến để chịu chết thay cho chúng ta (xem Rôma 5:8). Khi chúng ta yêu thương mọi người bằng tình yêu thương bền vững mà Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng ta, chúng ta sẽ yêu thương họ bằng tình yêu bền chắc, không thể hủy phá được.
đến, thì sự chưa được trọn lành sẽ bị bỏ” (c.8b10).

Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh” (1-4).
Người Côrinhtô tự hỏi: “Nếu chúng ta sẽ sống lại từ kẻ chết, thì việc đó xảy ra như thế nào và thân thể của chúng ta sẽ giống như gì?” Theo nền tảng tri thức của người Côrinhtô học thức thì họ không tin vào sự sống lại của tín hữu vì họ không hiểu điều đó có thể xảy ra như thế nào. Để diễn đạt sự bí nhiệm đó, Phaolô ví sánh sự sống lại từ kẻ chết với việc gieo trồng hạt giống: “Vật gì ngươi gieo, nếu không chết đi trước đã, thì không sống lại được. Còn như vật ngươi gieo, ấy không phải là chính hình thể sẽ sanh ra, chẳng qua là một cái hột, như hột lúa mì hay là hột giống nào khác. Đức Chúa Trời cho nó hình thể tùy ý Ngài lấy làm tốt, mỗi một hột giống, cho một hình thể riêng”(c.36-38).
Một hạt giống nằm sâu dưới đất trở thành cây hoa tươi tốt, giống như đoá hoa ngày Lễ Phục sinh, mặc dù là chúng ta không hiểu diều đó xảy ra như thế nào. Và hạt giống gieo xuống đất thì không giống như cây hoa mọc lên trên đất. Chính Đức Chúa Trời biến đổi hạt giống đó trở thành cây, thì Ngài cũng sẽ biến đổi thân thể hay hư nát của chúng ta thành thân thể không hay hư nát vào lúc sống lại: “Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy. Thân thể đã gieo ra là hay hư nát, mà sống lại là không hay hư nát; đã gieo ra là nhục mà sống lại là vinh; đã gieo ra là yếu mà sống lại là mạnh; đã gieo ra là thể huyết khí, mà sống lại là thể thiêng liêng” (42-44).

Nhiều tin rất tốt lành. Người Côrinhtô đã đối đãi với Tít bằng sự yêu thương thân mật, và họ đã làm theo mọi điều Phaolô khích lệ họ trong thư đầu tiên. Tuy nhiên, cũng có một số tin tức không tốt. Một số người trong Hội thánh bắt đầu công kích chức vụ sứ đồ của Phaolô, những người khác thì chỉ trích khả năng ăn nói của ông, và một số khác nữa nghĩ rằng ông mất trí, hoặc “hóa điên” (II Côrinhtô 5:13). Hơn nữa, nhiều người trong số họ bị tổn thương vì chính ông đã không đến thăm họ. Tuy nhiên, những người chỉ trích nầy không thể nào bác bẻ được những điểm Phaolô đã nêu ra trong thư vì lập luận chặt chẽ của ông. Thay vào đó, họ tấn công vào chính Phaolô, và khi Phaolô nghe những điều nầy, ông viết thư thứ hai cho họ.
Sáu chương đầu của II Côrinhtô nói rõ những phẩm chất của người chăn bầy, vì đó là vấn đề chủ yếu mà những người tấn công Phaolô dựa vào để chống lại ông. Họ nghĩ rằng ông không xứng đáng với vai trò sứ đồ, do đó không đủ tư cách để sửa sai họ. Phaolô viết thư nầy để bênh vực chức vụ sứ đồ và vai trò là một mục sư Tin lành. Do đó, chúng ta có thể cùng nhau đưa ra những nguyên tắc quan trọng về phẩm chất của người chăn bầy từ trong lời dạy của ông.

chiếu ra qua những vết nứt nầy, hoặc là những chứng cớ hiển nhiên của con người không hoàn mỹ của chúng ta.
kiêng ăn” (6:4-5).

Kinh nghiệm nầy tác động vào quan điểm đời sống ông khi chia sẻ với người khác. Lúc ông viết thư Êphêsô, đương nhiên là ông muốn họ đặt thiên đàng trên hết trong tâm trí, nên ông viết: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, cha Đức Chúa Giêxu Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời”(Êphêsô 1:3). Về cơ bản, ôngviết cho người Côrinhtô rằng, nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết (I Côrinhtô 15-19).
Quan Điểm Khiêm Nhường

Khả Năng Liên Quan Đến Người Quản Gia Trung Tín
Phaolô cho biết người Philíp ban cho cách rộng rãi, “quyên tiền theo sức mình, hoặc cũng quá sức nữa”(8:3). Chúng ta biết họ không giàu có vì Phaolô đã nói họ “rất nghèo khó”(c.2). Khi người nào ban cho cách rộng rãi, chúng ta thường cho rằng chắc họ giàu có. Có vẻ như một người giàu có thì dễ dàng ban cho hơn vì họ sung túc. Nhưng điều nầy không phải là trường hợp của người Philíp. Họ đã dâng trong lúc vô cùng nghèo khổ và gặp nhiều thử thách – và họ đã dâng vượt quá khả năng mình có.